Các yếu tố trước xét nghiệm ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm - Phần 3
III. CÁCH BẢO QUẢN VÀ VẬN CHUYỂN CÁC MẪU XÉT NGHIỆM
Việc ly tâm thường được thực hiện trong khoảng 1 giờ sau khi mẫu được thu lượm. Nếu các mẫu được gửi đi, chỉ được sử dụng huyết thanh hoặc huyết tương, trừ trường hợp thật đặc biệt, máu toàn phần mới được vận chuyển đi xa để phân tích.
Vì vậy, trong mỗi loại xét nghiệm cần phải có cách bảo quản khác nhau:
3.1. Bảo quản các enzym
- Các mẫu huyết tương sử dụng để đo hoạt độ enzym nói chung, thường có thể bảo quản ở 40C đến 5 ngày mà hoạt độ enzym không giảm quá 10%.
- Riêng đối với LDH, không bảo quản trong tủ lạnh vì hoạt độ của nó giảm khi các isoenzym LDH4 và LDH5 của nó không ổn định trong điều kiện lạnh.
- Còn ACP chỉ ổn định khi mẫu huyết tương được acid hoá.
3.2. Bảo quản các cơ chất
- Các chất chuyển hoá trong huyết tương thường ổn định ở 40C trong 6 ngày mà nồng độ không có sự thay đổi đáng kể. Riêng đối với triglycerid có thể bị giảm do bị lipase thuỷ phân. Tuy nhiên, nồng độ này không thay đổi nếu phương pháp phân tích qua glycerol toàn phần.
- Nếu sự xác định dựa trên phản ứng Jaffé thì bảo quản ở nhiệt độ phòng có thể làm giảm nồng độ của phosphat, acid uric và creatinin.
- Bilirubin bị phá huỷ khi bị ánh sáng chiếu vào trong quá trình bảo quản. Glucose sẽ chỉ được bảo quản sau khi tách protein khỏi mẫu máu hoặc thêm chất ổn định.
3.3. Bảo quản các protein, các kháng nguyên và kháng thể
Các protein, các kháng nguyên và kháng thể được bảo quản ở 4oC trong 1 tuần.
3.4. Bảo quản các hormon và dấu ấn ung thư
- Các hormon steroid tương đối bền, có thể bảo quản ở nhiệt độ phòng (25oC) trong 3 ngày; các dấu ấn ung thư cũng có thể bảo quản như vậy.
- Các hormon peptid, đặc biệt là các hormon không bền là ACTH, renin, insulin, GH và calcitonin muốn bảo quản quá 1 ngày phải để vào tủ lạnh sâu.
3.5. Bảo quản mẫu để xét nghiệm các chất đông máu
- Huyết tương nghèo tiểu cầu sử dụng để xác định thời gian prothrombin không được để quá 8 giờ.
- Hoạt độ của các chất đông máu phải được xác định trong khoảng 3 giờ, nếu quá thời hạn trên, huyết tương phải được bảo quản ở 4oC.
3.6. Bảo quản mẫu làm tổng phân tích máu
Mẫu máu toàn phần chống đông bằng EDTA chỉ được sử dụng dưới 24 giờ.
3.7. Bảo quản mẫu để phân tích hình thái tế bào máu
- Sự dàn máu trên phiến kính chỉ được thực hiện trong vòng 5 giờ sau khi lấy máu.
- Nếu sử dụng máu để phân tích các thành phần của máu, mẫu máu được sử dụng không quá 8 giờ.
3.8. Bảo quản mẫu trong một thời gian dài
- Nếu muốn bảo quản bệnh phẩm trong thời gian dài hơn thời gian nêu trên, bệnh phẩm cần được bảo quản ở nhiệt độ thấp hơn -200C.
- Khi cần sử dụng, mẫu cần được tan đông một cách từ từ ở 4-80C qua một đêm hoặc trong một bể điều nhiệt có lắc.
- Tuy nhiên, việc đông băng và tan đông không nên lặp đi, lặp lại.
3.9. Bảo quản nước tiểu để xét nghiệm cặn nước tiểu
- Cặn nước tiểu phải được đánh giá trong khoảng 2 đến 3 giờ.
- Không được bảo quản mẫu nước tiểu trong tủ lạnh hoặc đông băng vì điều kiện lạnh có thể gây kết tủa muối.
3.10. Bảo quản dịch não tuỷ
Việc đếm các tế bào trong dịch não tuỷ phải được thực hiện trong vòng 1 giờ.
3.11. Bảo quản máu để đo khí máu và thăng bằng acid-base
3.12. Cách vận chuyển các mẫu xét nghiệm
- Khi chuyển bệnh phẩm từ nơi này sang nơi khác trong nước hoặc ra quốc tế, cần bảo quản bệnh phẩm trong phích đá khô.
- Nói chung, sự thay đổi hoạt độ enzym và nồng độ các chất chuyển hoá không quá ± 10% trong khoảng 2 ngày, nếu nhiệt độ bảo quản mẫu dưới 25oC.
IV. ẢNH HƯỞNG CỦA TÌNH TRẠNG MẪU ĐẾN KẾT QUẢ XÉT NGHIỆM
Mẫu máu trong điều kiện nhất định có thể ảnh hưởng đến kết quả của một số xét nghiệm:
4.1. Sự tan máu
- Việc xác định K+, Mg2+ hoặc LDH không thể thực hiện được ngay cả khi huyết thanh chỉ bị tan máu rất ít.
- Sự tan máu rõ ràng cũng ảnh hưởng đến các xét nghiệm khác.
- Nếu thấy mẫu bị tan máu, cần loại bỏ mẫu máu ấy và phải lấy ngay một mẫu máu mới để thay thế.
4.2. Bilirubin máu
- Các nồng độ bilirubin trên 5 mg/dL (86μmol/L) ảnh hưởng đến sự xác định acid uric (phương pháp PAP).
- Các nồng độ bilirubin trên 10 mg/dL (170μmol/L) ảnh hưởng đến sự xác định triglycerid (theo phương pháp GPO-PAP) và sự xác định creatinin (phương pháp Jaffé và PAP).
- Phương pháp xác định creatinin mới không bị ảnh hưởng của bilirubin ngay cả khi nồng độ bilirubin lên đến 25 mg/dL (430 μmol/L).
4.3. Sự tăng lipid máu (lipemia)
- Lipid cao trong máu có thể cản trở việc đo các chất bằng phương pháp đo quang.
- Trong trường hợp này cần loại bỏ các lipoprotein trong huyết tương bằng cách sử dụng Freon.
Nguồn: Tổng hợp