Trang tin tức

Các yếu tố trước xét nghiệm ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm - Phần 2

18.06.2024

BIẾN ĐỔI THÔNG SỐ XÉT NGHIỆM DO NGUỒN GỐC SINH LÝ

2.1. Giới tính

Nồng độ một số chất trong máu và nước tiểu có sự khác nhau giữa nam và nữ (nồng độ Hb nữ < nam, các hormone sinh dục, glucose, phosphatase kiềm, ure, creatinin, hormone giáp trạng).

2.2. Tuổi

Trẻ sơ sinh và người trưởng thành khác nhau rõ rệt (bilirubine, cholesterol, ure, creatinin..), nếu chúng ta không chú ý, đôi khi đưa đến biện luận chẩn đoán nhầm dựa trên đơn thuần xét nghiệm. Nồng độ một số chất có thay đổi giữa người trưởng thành và người cao tuổi (creatinin, ure, phosphatase kiềm, hormone sinh dục, một số chỉ điểm khối u, cholesterol).

2.3. Chế độ ăn và tập quán

Chế độ ăn uống và tập luyện để giảm béo khoa học và hiệu quả

- Nồng độ một số chất như triglyceride (sau ăn nhiều mỡ), GGT (tăng sau khi uống nhiều rượu), phosphat và canxi huyết thanh (sau khi uống nhiều sữa).

- Rượu: ở một số người nghiện rượu nặng, sẽ có sự thay đổi hoạt độ một số enzyme SGOT, SGPT, GGT.

- Hút thuốc lá: do thuốc lá có ái lực cao với Hb nên các thành phần trong thuốc lá như CO, CO2 sẽ gây MetHb.

- Cà phê: ức chế phosphodiester (một enzyme phân huỷ AMPc thành 5’ AMP), quá trình phân huỷ glucose và lipide tăng lên, acide béo tự do huyết tương tăng gấp 3 lần.

- Thói quen luyện tập thể dục: thay đổi hoạt động enzyme của cơ: creatin phosphokinase (CK) cũng như SGPT, tăng rõ sau luyện tập thể dục, hoặc nó cũng tăng lên ở những bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim. Hemoglobine niệu có thể tăng lên sau luyện tập nặng, gây hiện tượng tán huyết.

2.4. Thuốc điều trị đang sử dụng

Các thuốc điều trị viêm da dị ứng | Vinmec

- Thực tế như chúng ta đã biết thường bệnh nhân đến với chúng ta khi bệnh đã chuyển nặng hay dùng thuốc không khỏi, nên chúng ta cũng khó tránh khỏi sự nhiễu kết quả xét nghiệm. Nên cán bộ xét nghiệm cũng nên nắm một số thuốc có thể ảnh hưởng kết quả, để loại trừ.

- Thuốc lợi tiểu thiazide ảnh hưởng lên kết quả xét nghiệm huyết thanh.

- Thuốc tránh thai làm thay đổi một số nồng độ protein gắn hormone.

- Paracetamol, nhóm salicylate ảnh hưởng đến một số màng điện cực chọn lọc ion (tác dụng nhiễu kết quả giai đoạn trước xét nghiệm).

2.5. Những sai số kỹ thuật được ứng dụng trong sinh hoá

- Sai số ngẫu nhiên (random error): xảy ra một cách ngẫu nhiên khó thể tránh khỏi, có thể do nhiều nguyên nhân (thuốc thử hỏng, dụng cụ đo lường không chính xác, dòng điện không ổn định, thao tác người làm xét nghiệm, thiết bị không chuẩn.

- Sai số hệ thống (systemic error): do chất lượng thuốc thử kém, chuẩn sai, kỹ thuật xét nghiệm không đặc hiệu. Nó dẫn đến sự dịch chuyển của các kết quả xét nghiệm theo cùng một hướng.

- Sai số bất thường (gross error): có thể tránh được, tần xuất sai số tuỳ thuộc vào chất lượng người làm xét nghiệm và vài yếu tố ảnh hưởng từ ngoaị cảnh: vệ sinh, trật tự, thông gió, tiếng ồn.

Các sai số trên khác biệt với OLR (Odds-likelihood ratios) để tính toán khả năng/ tần suất mắc bệnh sau cùng.

2.6. Quá trình thu lượm mẫu

- Các xét nghiệm hoá sinh lâm sàng hầu hết được thực hiện với huyết thanh, huyết tương hoặc máu toàn phần.

- Máu thường được lấy vào buổi sáng, khi bệnh nhân chưa ăn uống (có những xét nghiệm không cần nhịn ăn (theo chỉ dẫn của xét nghiệm viên).

2.6.1. Huyết thanh

Huyết thanh thu được bằng cách để máu đông tự nhiên trong khoảng thời gian từ 30 phút đến 1 giờ, ly tâm ở khoảng 3.000 vòng/ phút trong 10  phút, phần dịch nổi (supernatant) phía trên là huyết thanh.

2.6.2. Huyết tương

Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm máu thường gặp

Huyết tương thu được khi loại ion Ca2+ trong máu bằng cách thêm vào máu chất chống đông là các chất tạo phức (chelators) để tạo phức với ion Ca2+ như EDTA, citrat, oxalate hoặc heparinat.

- EDTA-K2 và EDTA-K3 với nồng độ 1,5-2 mg/ml máu được sử dụng cho các xét nghiệm huyết học thông thường.

- Heparine dưới dạng các muối như amon, Li, Na, K được sử dụng theo tỷ lệ 25U/ml máu, hay 0,01-0,1 ml heparin/ml máu.

- Fluoride (muối Na) được sử dụng với nồng độ 2 mg/ml máu. Fluoride có tác dụng cản trở sự đông máu và sự đường phân (glycolysis), nên thường được sử dụng để định lượng glucose máu.

- Dung dịch citrat (muối Na) nồng độ 3,8% hoặc 0,11 mol/L được sử dụng cho các xét nghiệm đông máu với tỷ lệ 1 thể tích Na citrate và 9 thể tích máu toàn phần hoặc được sử dụng để lắng hồng cầu với tỷ lệ 1 phần Na citrate và 4 thể tích máu toàn phần.

- Kali oxalate ít khi được sử dụng chống đông máu để lấy huyết tương.

Sau khi chống đông, ly tâm khoảng 3.000 vòng/phút trong 10 phút, dịch nổi phía trên thu được là huyết tương. Sự khác nhau giữa huyết thanh và huyết tương thường chỉ thấy trong sự xác định K+, phosphate vô cơ, lactate dehydrogenase (LDH) và điện di fibrinogen.

Ở các bệnh nhân bị chứng tăng tiểu cầu (thrombocytosis), giá trị tiểu cầu vượt trên 800.000/μL (hoặc Giga/L), việc định lượng K+ không thể thực hiện được trong huyết thanh, cần phải sử dụng thay thế bằng huyết tương chống đông với heparin.

2.6.3. Cách thu lượm máu toàn phần

Máu toàn phần có thể thu được bằng cách sử dụng các chất chống đông như đã nêu trên (không ly tâm). Một số xét nghiệm đòi hỏi sử dụng các chất chống đông khác nhau, chẳng hạn:

- Thu lượm máu để định lượng glucose máu: vì tốc độ đường phân (glycolysis) là khoảng 7% mỗi giờ nên cần phải thêm một chất ức chế quá trình đường phân, như NaF (sodium fluoride) hoặc iodoacetate vào mẫu máu trước khi xác định nồng độ glucose máu.

- Thu lượm máu để xét nghiệm huyết học: phần lớn các phân tích về huyết học, người ta thường sử dụng máu tĩnh mạch chống đông bằng EDTA. Trong trường hợp riêng biệt, sự giảm tiểu cầu giả (pseudothrombopenia) cảm ứng bởi EDTA có thế xảy ra, mặc dù điều này không có ý nghĩa lâm sàng. Việc sử dụng máu chống đông bằng citrat sẽ làm số lượng tiểu cầu trở về bình thường.

- Thu lượm máu để xét nghiệm đông máu: trong các xét nghiệm đông máu, huyết tương chống đông bằng citrat được sử dụng cho các mục đích phân tích. Cần phải trộn dung dịch Na citrat vào máu chính xác theo tỷ lệ là 1 thể tích Na citrat 3,8% và 9 thể tích máu toàn phần.

- Chú ý, máu chống đông bằng hợp chất EDTA hoặc axalat không sử dụng được cho các xét nghiệm về đông máu. Phải loại bỏ các mẫu máu bị tan huyết hoặc bắt đầu đông máu.

2.6.4. Thu lượm nước tiểu

Xét nghiệm nước tiểu và 5 điều quan trọng nhất

Khi phân tích nước tiểu cần phải chú ý:

- Có một sự khác nhau rõ rệt trong ngày về sự bài tiết của một số chất, ví dụ, nước tiểu phải được xử lý trước để ổn định các catecholamin và cần phải thu lượm tất cả nước tiểu bài tiết trong thời gian quy định.

- Để xác định calci, toàn bộ lượng nước tiểu trong 24 giờ phải được acid hoá và được đun nóng.

2.6.5. Thu lượm dịch não tuỷ (cerebrospinal fluid: CSF)

- Dịch não tuỷ được thu lượm để phân tích hoá sinh lâm sàng phải được xử lý với EDTA;

 - Để ngăn ngừa sự hình thành cục đông fibrin, tránh cho việc làm sai lạc số lượng tế bào đếm được.

Nguồn: Tổng hợp